Liên Kết
hoa chat xu ly nuoc thai det nhuom
hóa chất xử lý nước thải sinh hoạt
lap bao cao danh gia tac dong moi truong
lập báo cáo giám sát môi trường
lập báo cáo giám sát môi trường định kỳ
mẫu báo cáo giám sát môi trường định kỳ
phương pháp đánh giá tác động môi trường
thiết kế hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt
hệ thống xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học
hệ thống xử lý nước thải giấy
hệ thống xử lý nước thải mía đường
hệ thống xử lý nước thải nhà hàng khách sạn
hệ thống xử lý nước thải nhà máy bia
hệ thống xử lý nước thải nhà máy giấy
đánh giá tác động môi trường đtm
Kế hoạch bảo vệ môi trường
báo cáo đánh giá tác động môi trường
Xử lý chất thải chăn nuôi
Xử lý nước thải chăn nuôi heo
hóa chất xử lý nước thải sinh hoạt
lap bao cao danh gia tac dong moi truong
lập báo cáo giám sát môi trường
lập báo cáo giám sát môi trường định kỳ
mẫu báo cáo giám sát môi trường định kỳ
phương pháp đánh giá tác động môi trường
thiết kế hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt
hệ thống xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học
hệ thống xử lý nước thải giấy
hệ thống xử lý nước thải mía đường
hệ thống xử lý nước thải nhà hàng khách sạn
hệ thống xử lý nước thải nhà máy bia
hệ thống xử lý nước thải nhà máy giấy
đánh giá tác động môi trường đtm
Kế hoạch bảo vệ môi trường
báo cáo đánh giá tác động môi trường
Xử lý chất thải chăn nuôi
Xử lý nước thải chăn nuôi heo
Đối tác
Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015
Sống gần nhà máy thủy điện nhưng vẫn không có điện sử dụng
Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015 by Unknown
Vào cuối năm 2012 nhà máy Thủy điện Sơn La hoàn thành là nhà máy có công suất lớn nhất Việt Nam đồng thời cũng là nhà máy lớn nhất Đông Nam Á. Mặc dù là nơi đặt nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam nhưng hơn 3.000 hộ dân ở đây chưa một ngày dùng điện lưới quốc gia. Với họ, được sử dụng điện lưới quốc gia, có lẽ vẫn là một ước mơ xa vời.
Nghịch lý điện
Tại bản bản Tả Phù Chử, bản xa nhất của xã nghèo Chiềng Ân (huyện Mường La, Sơn La), trời vừa xẩm tối. Cách nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á chừng 70km, nhưng cùng với hơn 60 bản khác của huyện Mường La, bản này vẫn chưa có điện.
Những mái nhà người Mông lọt thỏm giữa rừng già, khi đêm xuống, ánh sáng của bếp lửa dường như là dấu hiệu nhận biết duy nhất nơi đây có người sinh sống.
Đến ngôi nhà của gia đình anh Giàng A Khua, 30 tuổi. Đốm lửa le lói giữa nhà làm hiện ra tám mái đầu đang chụm quanh nồi cơm to, một rổ rau và đĩa muối trắng.
Vợ chồng A Khua sinh được 6 đứa con, đứa lớn mới 12 tuổi, đứa út gần 1 tuổi. Cúi xuống thổi lửa to thêm, A Khua nói bằng tiếng Kinh lơ lớ: “Hôm nay mình đi làm thuê đổi được mấy cân gạo. Vợ bận con nhỏ không làm được, nhà hết gạo từ hai tháng rồi. Ăn còn chưa đủ, lấy đâu tiền mà mua máy phát điện”.
Mấy đứa trẻ rủ nhau ra trước nhà hóng mát khi xong bữa cơm. Đôi mắt chúng chăm chú nhìn từng ánh đèn lập lòe phát ra từ những ngôi nhà ven suối. Với gia đình anh Khua cũng như nhiều hộ dân ở đây, điện là một thứ gì đó thật xa xỉ.
Gần bờ suối, nhà chị Phàng Ba La nổi bật nhất với ánh đèn compact chớp liên hồi như đèn sân khấu. Chị bồi hồi chia sẻ khi chồng còn sống, hai người chăm chỉ làm nương tích góp mua được chiếc máy phát điện nhỏ chạy bằng sức nước, giá 800 ngàn đủ thắp một cái bóng đèn. Năm ngoái, anh không may qua đời, mình chị xoay sở nuôi 8 đứa con. Mùa vừa rồi thu hoạch được 3 tạ thóc, chị phải chạy ăn từng bữa đã mấy tháng nay. “Chồng chết rồi, không có ai lo bắc lại máy vào chỗ nước chảy đều nữa nên đèn nó nháy. Mai mốt mình sẽ bán máy đi mua gạo thôi, điện thì thích nhưng cái ăn cần hơn” chị Ba La bồi hồi.
Ở Tả Phù Chử, một số hộ có điện nhờ dùng máy phát điện bằng sức nước lắp đặt gần suối. Công suất máy phát đều khá nhỏ, chỉ đủ thắp bóng đèn, sạc điện thoại. Vào mùa khô, người dân phải chuyển máy sang luồng nước khác.
Ước mơ xa vời
Ngôi nhà sáng nhất bản có lẽ là nhà trưởng bản Phàng A Dênh, anh phải đầu tư máy phát điện công suất lớn để thắp 2 bóng đèn, sử dụng khi bản hội họp. A Dênh chia sẻ “Dân bản nghèo, vào mùa giáp hạt gần như cả bản thiếu đói. Chẳng mấy hộ dám mua máy phát. Bản mình mong sao sớm được kéo điện về để bà con sản xuất, trẻ con có đèn học bài”.
Trưởng bản Tả Phù Chử cho hay, bản có 29 hộ dân thì mới 4 hộ thoát nghèo. Gần 10 hộ thường xuyên đói đứt bữa. Mỗi năm người dân chỉ làm được một vụ, khí hậu khắc nghiệt nên năng suất rất thấp.
Gần 9h tối, bếp lửa và những ánh đèn yếu ớt trong bản đã tắt hết. A Dênh ngồi trước thềm cửa uống chén trà nóng, ngắm nhìn xung quanh. Trước mắt anh, bản làng ngập chìm trong bóng tối đen đặc. Phía xa xa, qua mấy dãy núi, nhà máy thủy điện Sơn La sáng lấp lánh, hoạt động bất kể ngày đêm để cung cấp điện cho mọi miền đất nước.
Giải thích về việc người dân gần thủy điện mà không được dùng điện, Giám đốc Công ty Điện lực huyện Mường La , ông Bùi Văn Lương,cho biết, trên địa bàn huyện có 16 thủy điện lớn nhỏ, các thủy điện này sản xuất đều hòa vào lưới điện quốc gia. Sau đó thông qua các chi nhánh điện để bán cho người dân. Ông Lương chia sẻ “Những bản chưa có điện đều ở quá xa, địa hình hiểm trở, đầu tư vốn lên cao. Một số bản chỉ 10-20 hộ dân, ước tính đầu tư lên đến 20 – 30 tỷ đồng. Với mức kinh phí như vậy, khó mà triển khai kéo điện được. Chúng tôi thiếu vốn, thiếu ngân sách đầu tư, đồng bào dân tộc thiểu số kinh tế khó khăn không thể huy động nguồn vốn xã hội hóa được”.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 Responses to “Sống gần nhà máy thủy điện nhưng vẫn không có điện sử dụng”
Đăng nhận xét